máy phát điện gia đình
Máy phát điện là thiết bị biến đổi cơ năng
thành điện năng thông
thường sử dụng nguyên lý cảm ứng điện
từ. Nguồn cơ năng sơ cấp có thể là các động
cơ tua bin hơi, tua bin nước, động cơ đốt trong,
tua bin gió hoặc
các nguồn cơ năng khác.
Máy phát điện giữ một vai trò then chốt trong
các thiết bị cung cấp điện. Nó thực hiện ba chức năng: phát điện, chỉnh
lưu, hiệu
chỉnh điện áp.Khái niệm
Máy phát điện làm di chuyển dòng
điện nhưng không tạo ra điện tích. Những điện tích này sẵn có trong trong phần
dẫn điện của dây quấn. Một cách nào đấy, nó có thể ví với một cái bơm, tạo ra
dòng nước chảy nhưng không tự tạo ra nước.
Cũng có những máy phát điện kiểu
khác, đưa trên những hiện tượng điện tự nhiên khác như hiệu
ứng áp điện, hiệu ứng từ thủy
động. Kết cấu của dynamo tương tự với các động cơ điện, và các loại
dynamo thông dụng đều có thể hoạt động như một động cơ.
Thuật ngữ
Các bộ phận của máy phát điện và các
thiết bị liên quan có thể được gọi bằng những thuật ngữ cơ khí hoặc thuật ngữ
điện. Mặc dù đã được phân loại riêng biệt, hai bộ thuật ngữ này thường được sử
dụng thay thế lẫn nhau hoặc kết hợp một thuật ngữ cơ với một thuật ngữ điện.
Điều này gây ra những xáo trộn lớn khi làm việc với những máy hỗn hợp như máy
phát xoay chiều kích từ không chổi than, hoặc khi trao đổi với những người đã
thường làm việc với những máy được chế tạo theo kiểu khác.
- Cơ học
- Rotor (Rôto), phần quay của một máy phát điện, dynamo
hay động cơ điện.
- Stator (Stato), phần tĩnh của một máy phát điện, dynamo
hay động cơ điện.
- Điện học
- Armature: cuộn dây phần ứng, thành phần sản xuất ra
điện năng trong máy phát điện, dynamo hoặc động cơ. Cuộn dây phần ứng có
thể đặt trên rô to hoặc sta to.
- Field: cuộn dây phần cảm: thành phần tạo ra từ trường của máy phát điện dynamo hay động cơ điện. Phần từ trường này có thể ở trên rô to hay sta to, và có thể là từ trường của nam châm vĩnh cửu hay từ trường của nam châm điện.
Mạch tương đương
Mạch tương đương của máy phát và tải
được hiển thị trên hình bên phải. Để có thể xác định được những thông số Vg và Rg của máy
phát, vần thực hiện theo những bước dưới đây:
- Trước khi khởi động máy phát điện, đo điện trở giữa các đầu cực của nó bằng một ôm kế (ohmmeter). Đây là điện trở nội một chiều của máy Rgdc .
- Khởi động máy phát. Trước khi nối máy phát vào tải R_L(Description) , đo
điện thế giữa các đầu cực máy phát. Ta có được điện thế hở mạch V_G
. - Nối máy phát với tải như hình vẽ Đo điện áp trên các đầu cực của máy phát khi máy đang chạy. Đây là điện thế mang tải của máy V_L.
- Đo điện trở tải R_L, nếu bạn chưa biết.
- Tính toán tổng trở nội xoay chiều của máy phát R_{GAC}theo
công thức sau:

Lưu ý 1: Tổng trở nội xoay chiều của
máy phát điện khi đang chạy thường hoi cao hơn tổng trở nội một chiều của nó
khi tĩnh. Nguyên lý trên cho phép bạn đo được cả hai giá trị. Khi tính toán
thô, người ta có thể bỏ qua bước đo R_{GAC} và giả
định rằng R_{GAC} và R_{GDC} bằng
nhau.
Lưu ý 2: Nếu máy phát là máy phát
điện xoay chiều thì phải dùng vôn kế xoay chiều để đo.
Công suất tối đa
Máy phát điện luôn có một tổng trở
nội Z = R + jX do cấu tạo của nó. Do đó khi máy phát cung cấp dòng điện cho
tải, nó đồng thời cấp dòng cho nội trở và tiêu tán một phần công suất. Nguyên
lý truyền công suất cực đại qua mạng một cửa nêu lên rằng: tải nhận được công
suất cực đại khi tổng trở tải bằng chính nội trở nguồn. Tuy nhiên lúc đó hiệu
suất của máy phát chỉ đạt 50%. Điều đó có nghĩa là một nửa công suất phát ra đã
bị thất thoát thành nhiệt năng bên trong máy phát. Vì thế, những máy phát thực
thụ thường không được thiết kế để vận hành ở công suất tối đa, mà ở mức công suất
thấp hơn nhiều, thuộc khu vực có hiệu suất cao hơn.
Công suất định mức
Công suất định mức là công suất mà
máy phát điện có thể phát ra an toàn liên tục mà không gây xáo trộn trong máy.
Thông thường công suất định mức của một máy phát điện phụ thuộc vào các yếu tố
sau:
- Tổng trở trong của phần dẫn điện
- Lượng nhiệt năng sinh ra khi có dòng điện đi qua phần
dẫn điện
- Nhiệt độ làm việc an toàn liên tục của phần cách điện
- Chế độ làm mát của phần dẫn điện
Công suất khả dụng
Công suất khả dụng là công suất tối đa
mà máy phát có thể phát được an toàn liên tục mà không vi phạm các thông số kỹ
thuật khác. Thông thường, công suất định mức được tính toán ở các điều kiện
tiêu chuẩn. Trong thực tế, các điều kiện vận hành của thiết bị có thể không
đúng với điều kiện tiêu chuẩn. Vì thế công suất khả dụng thường thấp hơn công
suất định mức.
Các điều kiện ảnh hưởng đến công
suất khả dụng của máy là:
- Nhiệt độ môi trường
- Sự thay đổi chế độ làm mát của máy phát
- Sự lão hóa của chất cách điện, làm cho nhiệt độ chịu
đựng của máy phải giảm xuống
- Những giới hạn của động cơ sơ cấp kéo nó
- Những giới hạn của các thiết bị lắp phía sau nó: máy
cắt, máy biến áp, đường dây...
Máyphát điện công suất thấp
Những chiếc xe có gắn động cơ đầu tiên có khuynh hướng lắp đặt các máy phát điện một chiều với bộ điều hòa điện thế bằng cơ khí. Kiểu này không được tin cậy hoàn toàn, và hiệu suất thấp, nên sau này đã được thay thế bằng các máy phát điện xoay chiều với những mạch chỉnh lưu lắp trong.
Công suất của hệ thống điện này trên xe sẽ nạp lại cho các bình
ắc quy sau khi khởi động. Ngõ ra định mức của nó thường trong khoảng 50-100 A ở
điện thế 12 V, tùy thuộc vào thiết kế tải phần điện bên trong xe. Một số xe
hiện nay có hệ thống trợ động dùng điện,
và hệ thống điều hòa nhiệt độ
cũng
bằng điện.
Những thiết bị này này làm
tăng tải của hệ thống điện.
Các xe tải
nặng hơn sẽ sử dụng nguồn 24 volt để có đầy đủ lực cho
động cơ khởi động để có thể quay được các động cơ diesel
lớn, mà không cần những sợi cáp điện lớn hơn, vốn ít tin cậy hơn. Các máy phát
của xe thường không sử dụng nam châm vĩnh cửu; chúng có thể đạt được hiệu suất
đến 90% ở trong một dải tốc độ rất rộng bằng cách điều khiển điện áp kích từ.
Máyphát điện - động cơ nổ
Đi kèm với máy phát điện và động cơ
nổ, các bộ máy phát điện - động cơ nổ thường có kèm theo một bồn chứa nhiên
liệu, một bộ điều tốc cho động cơ nổ và một bộ điều thế cho máy phát điện.
Nhiều khối máy còn kèm theo bình ắc quy và bộ động cơ điện khởi động. Những tổ
máy dùng làm máy phát dự phòng thường bao gồm cả hệ thống tự động khởi động và
một bộ chuyển mạch đảo nguồn transfer
switch để tách tải ra khỏi nguồn điện dịch vụ và nối vào máy phát.
Các bộ máy phát điện - động cơ nổ
cung cấp công suất điện xoay chiều sao cho nó có thể được sử dụng thay thế
nguồn điện lưới thường phải mua từ các trạm phân phối của công ty điện lực. Các
thông số điện áp (volt), tần số (Hz) và công suất (watt) định mức của máy phát được
lựa chọn sao cho phù hợp với tải cần nối vào máy phát. Có cả hai loại máy một pha
và ba pha.
Rất ít loại máy ba pha là máy xách tay di động. Thường máy xách tay người ta
chỉ làm máy một pha .
Hầu hết các máy phát điện ba pha là loại máy lớn dùng trong công
nghiệp bộ máy phát điện - động cơ nổ thường
được chế tao trong một dải công suất khá rộng. Nó có thể bao gồm từ các máy di
động quay tay có thể cấp điện cỡ vài trăm watt, loại xách tay như hình vẽ trên,
có thể cấp điện cỡ vài nghìn watt và loại tĩnh hoặc loại đặt trên rơ moóc có
thể cấp điện đến vài triệu watt. Các máy nhỏ thường dùng nhiên liệu là xăng, và
các máy lớn hơn sử dụng nhiều nguyên liệu khác nhau, từ dầu diesel, khí tự
nhiên hay khí propane.
Khi sử dụng máy phát điện - động cơ nổ, bạn có thể phải quan tâm đến chất lượng của dạng sóng ra của nó. Điều này rất quan trong khi sử dụng những thiết bị điện tử nhạy cảm. Một bộ điều hòa điện năng power conditioner có thể lấy những sóng vuông do máy phát điện - động cơ nổ phát ra, và làm cho nó đẹp đẽ lại bằng cách cho nó chạy qua một mạch điện trong đó có phần trung gian là một bình ắc quy. Sử dụng một bộ nghịch lưu cao cấp thay thế máy phát điện có thể tạo ra điện áp có dạng sóng thuần sin hơn. Một vài loại nghịch lưu chạy rất êm, tạo ra điện áp sin rất sạch sẽ, phù hợp với máy tính điện tử và các thiết bị điện tử nhạy cảm. Tuy nhiên một số bộ nghịch lưu rẻ tiền không phát ra được điện áp sin hoàn hảo, và có thể làm hư hỏng một số thiết bị điện tử.
Các máy phát điện động cơ nổ thường
được sử dụng để cung cấp điện cho các vùng mà nguồn điện lưới không kéo đến
được, và trong những tình huống phải cấp điện ngắn hạn tạm thời.
Các máy phát
nhỏ đôi khi có thể dùng để cấp điện cho các dụng cụ tại các công trường xây
dựng. Các máy phát điện loại rơ moóc có thể dùng cấp điện cho chiếu sáng, và
các trò chơi giải trí trong các hội chợ di động.
Các máy phát điện dự phòng thường
được lắp đặt cố định và luôn sẵn sàng hoạt động để cấp điện cho những tải quan
trọng khi nguồn điện lưới bị gián đoạn. Bệnh viện, các cơ sở thông tin liên
lạc, các trạm bơm và rất nhiều các dịch vụ quan trọng đều được lắp đặt máy phát
điện dự phòng.
Các máy phát điện cỡ nhỏ hoặc cỡ
trung đặc biệt phổ biến ở các nước trong thế giới thứ ba,
nơi nguồn điện lưới không tin cậy. Các máy phát điện đặt trên rơ moóc có thể
được kéo đến những vị trí thiên tai khi nguồn điện lưới bị gián đoạn.
Máy phát điện cũng có thể được vận
hành bằng sức người để tạo ra nguồn điện tức thời trong lĩnh vực thông tin liên
lạc.
Máyphát điện - động cơ nổ công suất trung bình
Máy phát điện - động cơ nổ công suất
trung bình như hình vẽ dưới đây là một bộ máy có công suất 100 kVA cấp điện áp
415 V với dòng điện khoảng 110 A per phase. Nó được kéo bằng một máy Perkins
Phaser, sê ri 1000 dung tích xy lanh 6,7l có hệ thống nạp gió kiểu turbo. Máy
này tiêu thụ khoảng 27l nhiên liệu mỗi giờ, có bồn chứa 400 l. Các máy phát
điện tĩnh có thể được thiết kế đến hàng nghìn kW và thường quay ở tốc độ 1500
vòng/phút với tần số 50 Hz, và 1800 vòng/phút với tần số 60 Hz. Các
bộ máy sử dụng động cơ diesel ở công suất tối ưu có thể phát được khoảng 3 kWh
với mỗi kG nhiên liệu, và có thể có hiệu suất thấp hơn khi làm việc ở các tải
khác.
Máyphát điện tua bin nước
Thông thường, các tua bin nước có
tốc độ thấp. Vì thế các máy phát điện kéo bằng tua bin nước cũng có tốc độ rất
thấp. Các máy này thường có nhiều đôi cực, trục ngắn, đường kính lớn, chế tạo
theo kiểu cực lồi. Tùy theo thể loại, và tùy theo tốc độ của tua bin nước, các
máy này có thể được đặt đứng hay nằm ngang.
Rotor của máy phát điện thường làm
bằng nhiều khối thép rèn ghép lại với nhau thành nhiều cực từ. Trên mỗi cực từ
có các cuộn dây kích thích quấn tập trung.
Máyphát điện tua bin hơi và tua bin khí
Các máy phát điện kéo tua bin hơi và tua bin khí có
tốc độ cao hơn tua bin nước. Các máy phát điện tua bin hơi hoặc tua bin khí
thường được chế tạo với tốc độ cao nhất (3000 vòng/phút đối với máy có tần số
50 Hz, và 3600 vòng/ phút đối với máy 60 Hz). Hầu hết các máy phát
điện tua bin hơi và máy phát điện tua bin khí là loại trục nằm ngang, chế tạo
theo kiểu cực ẩn. Loại này có rotor dài hơn nhiều so với đường kính.
Stator của máy cũng giống như máy
phát cực lồi. Thông thường với đa số các máy có đường kính lớn hơn 1 m, lõi
thép stator được chế tạo thành nhiều cung, bằng thép silicon cao cấp, có tính
định hướng, phủ chất cách điện để giảm thiểu tổn thất điện năng. Người ta
thường không ghép thành một khối như các máy điện cỡ nhỏ, mà làm thành nhiều
lớp, có khe hở ở giữa để thông gió làm mát.
Các đầu dây Stator của một máy phát
điện sau khi tháo nắp máy phát
Cuộn dây stator được làm từ các
thanh dẫn đồng xếp nằm trong các rãnh, hai đầu nối lại với nhau thành các vòng
dây. Các thanh dẫn thường không phải là thanh đặc nguyên khối, mà được làm từ
các dây dẹp quấn bện theo kiểu Roebel, sao cho mỗi thanh nhỏ trong bó đều có
một chiều dài bằng nhau, dù có phải uốn lượn theo nhiều hướng khác nhau. Các
dây nối ra ngoài và dây nối giữa các pha, các vòng dây với nhau được cố định
chắc chắn hai đầu bằng các vật liệu cách điện có độ bền điện và độ bền cơ học
cao.
Điện áp ra của stator thường nằm
trong khoảng vài kV đến 14,4 kV. Muốn truyền đi xa hơn, người ta thường phải
dùng một máy biến áp tăng
áp. Để lấy điện đưa xuống sử dụng cho các thiết bị điện phụ vụ cho tổ máy vận
hành, người ta dùng một máy biến áp hạ áp, trong trường hợp này gọi là máy biến
áp tự dùng.
Rotor của một máy phát điện tua bin
khí sau khi được rút ra ngoài, và chuẩn bị cầu về cơ xưởng
Rotor của nó có dạng trụ có xẻ rãnh,
quấn nhiều cuộn dây kích từ đồng tâm. Hai đầu chỗ các mối hàn nối các thanh và
các cuộn dây với nhau được bảo vệ bằng một vòng thép hình trụ, gọi là vòng hộ
hoàn. Các dây dẫn ra ngoài được dẫn xuyên qua dọc theo trục máy để đưa ra phía
đầu rotor. Từ đó có thể nối vào các vành nhận điện, để có thể đưa dòng điện từ
bên ngoài vào qua các chổi than. Dòng điện đưa vào rotor máy phát điện thường
là dòng điện một chiều, gọi là dòng
kích thích.
Thông thường, hai đầu của rotor đều
có lắp đặt cánh quạt để thổi chất khí đi vào theo các dường dẫn đặt sẵn, để làm
mát máy. Chất khí đó có thể là không khí tự nhiên, thông với môi trường bên
ngoài, hoặc khí hydro, tuần hoàn kín.
Trong trường hợp tuần hoàn kín, có thể phải lắp đặt thêm một số bộ trao đổi
nhiệt, để làm mát chất khí đó bằng nước.
Các máy phát điện tua bin hơi và máy
phát điện tua bin khí có thể chế tạo từ một vài MW đến 700 MW.




































